ĐI TÌM Ý NGHĨA THẬP THIÊN CAN – THẬP NHỊ ĐỊA CHI
Trong bộ môn lý học Đông Phương thì Thiên can và địa chỉ là cơ sở gốc của tất cả các bộ môn ứng dụng của hệ thống học thuyết âm dương ngũ hành, lịch pháp.
Tuy nhiên, cho tới giờ phút này vẫn chưa có một định nghĩa vì sao lại có 10 Thiên Can ? Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh , Tân, Nhâm. Quí là gì ? và vì sao GIÁP lại đứng đầu.
Hệ 12 Địa Chi đã giải nghĩa được vì sao người xưa lại dùng hình tượng của 12 con vật , nhưng hệ thiên Can thì không có. Vì thế, Tôi cố gắng đi tìm và giải nghĩa nó để chúng ta có thể hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa và ứng dụng của hệ thống thiên can này
Cũng như 12 Địa Chi, người xưa đặt tên con vật với đặc tính sinh hoạt, hoạt động của chúng để đánh dấu mốc thời gian, thì Thiên Can là sự vận hành và tương tác từ bên ngoài Thiên Nhiên. Như vậy, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của chúng với định vị về sự phân biệt KHÔNG GIAN mang tính qui luật tương tác tới sự vận hành của THỜI GIAN (Địa Chi)
Sự vận hành của qui luật tự nhiên được chia thành 5 nhóm mà đại diện là 5 loại vật chất Kim-Mộc-Thủy-Hỏa- Thổ. Hành thổ , và chi phối bởi ÂM -DƯƠNG. Do đó ta sẽ có
Để đại diện cho qui luật vận hành này của tự nhiên, người xưa định danh đại diện thành 10 tên gọi là Thập Thiên Can bao gồm ÂM -DƯƠNG và NGŨ HÀNH.
Thứ tự thiên can và ngũ hành được sử dụng theo ý nghĩa và vật chất mà tên đó đại diện, và vì vậy chúng ta cần tìm hiểu vì sao GIÁP lại đứng đầu thiên can và là hành mộc.
Tìm nghĩa từ, Tôi sử dụng các sách tra cứu từ điển NÔM và sách cội nguồn chữ Hán để dịch nghĩa của từ.
- GIÁP: 甲
Xưa kia Đời khoa cử, thi tiến sĩ lấy “nhất giáp” 一甲, “nhị giáp” 二甲, “tam giáp” 三甲 để chia hơn kém. Giáp là thuộc hàng đầu, vào hạng nhất, là vỏ cứng bao bọc che chở. Giáp cũng thuộc bộ Mộc, là vỏ gương, là vỏ cây cứng, theo sách Tam Mệnh Thông Hội (tứ khố toàn thư) thì cũng như hạt gieo xuống đất, vỏ cứng của hạt phải mở ra thì mầm cây mới nảy nở. Chữ Giáp vì thế mà đứng đầu với đại diện của hành mộc bởi chữ GIÁP là áo Giáp của chiến binh xưa nhưng nó không phải là sự khai sinh mầm sống.
Như vậy đứng đầu là GIÁP , kết thúc ở QUÍ (út- cuối cùng) chính là khởi đầu của 10 thiên can.
- ẤT 乙
Ất có ý nghĩa là thứ hai, là ruột bên trong, là con chim én. Như vậy Ất nghĩa là thư hạng 2 và đưa vào hệ thiên can thứ hai là Ât, vì là ruột nên nó là âm mộc sau Dương Mộc là Giáp.
Lưu ý, số hai tiếng Hán là 二 đọc là Èr
- BÍNH 丙
Bính là đuôi cá (NGƯ VĨ), giáp cốt văn hình tượng là cái đuôi cá như ngã ba đường. Bính cũng nghĩa là sáng chói, tỏ rõ, là cho lửa vào để đốt ,cho nên nó được qui về hành HỎA. Như thế Bính là thứ Ba, hành hỏa.
- ĐINH 丁
Là họ Đinh, là cái đinh, nhân đinh, đốt chích , nóng ngứa, mụn đầu đinh. Tôi chưa có sự giải đáp thích đáng vì sao chữ ĐINH này lại được xếp thứ 4 -Âm Hỏa. ĐINH cũng hiểu nghĩa là sự trưởng thành, là HỎA trưởng thành, hình thành sẽ phải đi xuống, Với nghĩa như vậy, Đinh xếp hàng thứ tư để kết thúc chu kỳ đầu của tương sinh.
- MẬU 戊
Là thứ năm, bậc thứ năm, là tốt tươi thịnh vượng, rộng lớn.
- KỶ 己
Từ dùng cho thứ tự, chỉ hàng thứ sáu. ◎Như: “tam niên kỉ ban” 三年己班 năm thứ ba ban thứ sáu.
- Canh 庚
Là cày ruộng , cái đập lúa gốc từ là công cụ đập lúa (như chữ Khang). Sau này được hiểu là can thứ Bảy. Canh còn có nghĩa là Canh giờ, hoàn trả, đổi đầu mối, luân phiên tiếp theo.
Khi vạn vật quay về Thổ thì lại bắt đầu đổi sang một chu kỳ mới, luân phiên tiếp theo sự vận hành tương sinh. Có lẽ vì vậy mà người xưa dùng chữ CANH là để chỉ sự khởi đầu luân phiên mới từ hành KIM. Lúc đầu tôi cho rằng xuất phát từ ý Cày Ruộng và cái Cày nhà nông giống như số 7 七, tuy nhiên cách suy luận này không hợp lý bởi số học ra đời sau hệ thiên can. Hoặc cũng có thể dựa vào thứ tự hàng can mà ý nghĩa biến thành chữ Thất – số 7 ?
- TÂN 辛
Chữ Tân bao gồm Tân chỉ ÂM và Cân là cái Rìu, thành chữ 辛 . Âm kim là tượng của thiên can hàng thứ 8 trước khi nó chuyển qua hành Thủy
- NHÂM壬
Nhâm có nghĩa là mang thai, là sự hình thành, nên hết Kim thì Thủy sinh. Có lẽ Nhâm hàm chứa ý nghĩa này
- QUÍ癸
Cuối cùng, út, sau chót, và thường để dùng xem con nước (Quí Thủy 天癸). Khởi giáp kết thúc ở Quí thủy là ý nghĩa của chữ QUÍ này.
THẬP NHỊ ĐỊA CHI
Là hình ảnh đại diện cho thời gian mà đại diện là 12 con giáp:
Người xưa định giở bằng phương pháp bóng ngả, mỗi cung chiếm 1/12 đường tròn. 12 tháng cũng vậy, nếu theo lịch mặt trăng thì tính qui luật theo pha mặt trăng thì một năm có 12 tháng.
Người xưa sử dụng hình ảnh đại diện cho đơn vị thời gian bằng hệ thiên can và địa chi chứ không dùng thứ tự các con số. 12 tháng, 12 canh giờ được đại diện bởi 12 con vật trong đời sống của nền văn minh lúa nước. Để tính thời gian thì người xưa dùng đơn vị KHẮC , với công cụ là một cái chứa bằng đồng để nước hoặc cát cho ra từ từ và đều đặn, mỗi canh giờ là 8 khắc.
- TÝ Con chuột được xếp vào hàng số 1 : Giờ Tý qui ra giờ tây lịch (khoảng giờ 23.00 – 01.00
Vì Giờ qui đổi có khác nhau theo từng tháng). Thời điểm này là giờ con chuột hoạt động nhiều nhất mà con người nhận biết được. Do đó con chuột được lấy làm đại diện cho khoảng thời gian này, chứ không phải là do chuột thông minh hay nhanh nhẹn mà nó xếp hàng đầu.
- SỬU
Trâu chỉ có trong nền văn minh Lúa nước, là một con vật vô cùng quan trọng với người nông dân.
Vì thế mà 3 việc lớn của người đàn ông trưởng thành là “Tậu Trâu , cưới Vợ, làm Nhà” . Con Trâu không thể có ở phía bắc sông Dương Tử của Trung Hoa, và vì thế nó không thuộc về văn minh hoa hạ.
Khoảng giờ 01.00 – 03.00 sáng là giờ con Trâu ăn để chuẩn bị cho giờ làm việc, do đó thường vào khoảng giờ này là người nông dân phải cho Trâu ăn . Vì thế, Trâu là đại diện cho khoảng thời gian này.
- DẦN
Hổ là đại diện cho khoảng thời gian từ 03.00-05.00. Đây là giờ con Hổ thường đi săn và về thôn xóm tìm thức ăn và vì thế người xưa dùng hình tượng HỔ để làm đại diện. Tất nhiên, đây là đặc tính sinh hoạt của Hổ ở Đông nam Á.
- MÃO
Vật nuôi thân thiết của nhà Nông chính là cho Mèo, bởi có chuột phá phách thì có Mèo để khắc chế. Mèo cũng là hình ảnh phổ biến trong văn hóa dân gian của người Việt. Khoảng thời gian 05.00 -07.00 là khoảng thời gian con Mèo nghỉ ngơi sau một đêm rình bắt chuột, và lý do đó thời gian này không thể là đại diện của con THỎ.
- THÌN
Rồng là biểu tượng của Vua, là thượng đế nhưng lại là Linh vật ko có thực. Tuy nhiên, khoảng thời gian này khi măt trời lên và sương và mây bắt đầu tan và bay lên , hình ảnh như vậy được hình tượng hóa thành RỒNG. 07.00-09.00 là khoảng thời gian mà RỒNG làm đại diện.
- TỴ
Rắn là đại diện cho khoảng thời gian từ 09.00-11.00. Thời gian này là thời gian Rắn thường ra phơi nắng và lột xác, và đó là khoảng thời gian được mô tả bằng hình ảnh của Rắn.
- NGỌ
Là khoảng thời gian từ 11.00-13.00, đây là khoảng thời gian con ngựa cần được nghỉ ngơi sau giờ làm việc sáng.
- MÙI
Con Dê là đại diện cho khoảng thời gian từ 13.00-15.00 , do con Dê không thích ăn cỏ ướt nên đấy là khoảng thời gian Dê ăn nhiều nhất.
- THÂN
Khỉ là con vật thứ 9 trong số 12 con Giáp, và là đại diện cho khoảng thời gian từ 15.00-17.00. Đây là khoảng thời gian bầy khỉ về tổ và tiếng kêu của chúng cho chúng ta biết đây là khoảng thời gian nào.
- DẬU
Con gà lên chuồng vào khoảng thời gian này, và cũng là giờ mà chúng ta gọi là quáng gà. Nó đại diện cho khoảng thời gian từ 17.00-19.00
- TUẤT
Là vật nuôi thân thiết và bảo vệ quan trọng và khoảng thời gian từ 19.00-21.00 là giờ nghe thấy Chó sủa nhiều nhất.
- HỢI
Lợn vào giờ này đã ăn xong và đi ngủ, không còn nghe thấy tiếng lợn kêu, nó đại diện cho khung giờ cuối cùng trong ngày , 21.00-23.00.
Ngũ hành của hệ Thiên can, chúng ta hãy quan sát sự luân chuyển 4 mùa : Xuân – Hạ – Thu – Đông , để thấy rằng : Tháng 1(hiện nay là tháng 11) âm là tháng Tý nhưng do lịch kiến Dần trong kỷ cuối của chòm sao Thiên Cực Bắc nên tháng 12 là tháng Chạp – tháng Sửu, tháng 3 là tháng Dần – tháng lập xuân để tính một năm mới. Sự vận hành theo chiều tương sinh ngũ hành được sắp xếp tuần tự theo 12 Địa Chi của tháng:
Hành Thủy :Mùa Đông là từ tháng 10 tiết Lập Đông tới hết tháng 1 (tháng 11) âm
Hành Thổ: khi kết thúc hành Thủy, tiết Tiểu hàn thì sẽ quay về Thổ, – Tháng Chạp.
Hành Mộc: Mùa xuân báo hiệu năm mới, tiết Lập Xuân từ tháng Giêng tới tháng 2 -Mão
Hành Thổ: Kết thúc hành trình của hành Mộc là quay về thổ : Tháng Thìn tức tháng 3 âm
Hành Hỏa: Bắt đầu từ tháng Tỵ-tháng 4 là tiết Lập Hạ tới tháng 5- Ngọ
Hành Thổ: Kết thúc hành Hỏa sẽ lại quay về Thổ là tháng 6 âm – Tháng Mùi
Hành Kim: Là bắt đầu của mùa Thu – tiết Lâp Thu tháng Thân tới tháng Dậu tức tháng 7 và tháng 8 âm.
Hành Thổ: Kết thúc hành Kim là vạn vật lại quay về Thổ -tháng chin là tháng Tuất
Như vậy, chúng ta thấy rằng đặt tính của con vật không liên quan tới vận hành và qui luật SINH VƯỢNG MỘ của vũ trụ, mà nó chỉ là hình ảnh đại diện cho một hệ thống định vị thời gian.